Ung thư cổ tử cung phát triển như thế nào
Ung thư cổ tử cung do rất nhiều nguyên nhân gây ra, nhưng gặp nhiều nhất ở những phụ nữ bị nhiễm vi rút sinh u nhú ở người (HPV). Nó là quá trình đầu tiên trong quá trình làm cho cổ tử cung từ bình thường trở nên bị ung thư. Người ta đã nhận thấy rằng, nguyên nhân chính nhiễm HPV là do lây truyền qua đường tình dục, vi rút HPV xâm nhập vào các tế bào ở cổ tử cung, làm cho các tế bào phát trển không bình thường và sau đó trở thành tế bào ác tính.
Tiền ung thư cổ tử cung là gì?
Ung thư cổ tử cung thường có quá trình phát triển từ tế bào bình thường đến tế bào ung thư phải trải qua nhiều năm, đôi khi cũng chỉ dưới 12 tháng. Khi hình thành tế bào ung thư, các tế bào ung thư có kích thước và hình thái bất thường, thường gặp ở những tế bào bề mặt của cổ tử cung và chúng bắt đầu nhân lên gấp bội.
Loạn sản tế bào cổ tử cung
Là giai đoạn phát triển sớm nhất của các tế bào bất thường của cổ tử cung mà chúng có thể trở thành tế bào ung thư. Loạn sản tế bào cổ tử cung thường là giai đoạn đầu của ung thư cổ tử cung, có một số phụ nữ bị loạn sản tế bào cổ tử cung nhưng không phải ai bị loạn sản tế bào cổ tử cung cũng bị ung thư.
Các tế bào bị loạn sản trông cũng giống như tế bào ung thư, nhưng chúng không được xem là tế bào ác tính bởi vì những tế bào này vẫn nằm trong lớp biểu mô ở bề mặt của cổ tử cung và chúng không xâm nhập vào các tổ chức khỏe mạnh khác của cổ tử cung.
Giai đoạn tiền ung thư được phân loại làm 3 giai đoạn:
– CIN I: Là giai đoạn loạn sản nhẹ, trong đó các tế bào bất bình thường được giới hạn nằm ở 1/3 ngoài lớp tế bào của tế bào cổ tử cung (biểu mô). Sự phân loại này bao gồm các tế bào đã bị biến đổi do bị nhiễm vi rút u nhú ở người (HPV). Loại loạn sản này thường gặp ở những phụ nữ tuổi từ 25 đến 35 tuổi.
– CIN II: Là giai đoạn loạn sản ở mức độ vừa phải, trong đó các tế bào bất thường đã chiếm một nửa lớp tế bào cổ tử cung (biểu mô).
– CIN III: Là giai đoạn bị loạn sản nặng, trong đó toàn bộ lớp tế bào biểu mô là tế bào loạn sản, nhưng những tế bào này chưa xuyên qua lớp tế bào đáy để xâm nhập vào các tổ chức dưới biểu mô của cổ tử cung. Loại tổn thương này được gọi là ung thư tại chỗ (in situ), loạn sản nặng (CIN II) thường gặp nhiều ở phụ nữ từ 30 đến 40 tuổi.
Ở giai đoạn này, nếu không điều trị các tế bào sản nặng sẽ xuyên qua lớp tế bào đáy của cổ tử cung và lan sang các cơ quan và tổ chức khác của cổ tử cung. Quá trình lan sang các tổ chức, cơ quan khác thường phải trải qua nhiều tháng hoặc nhiều năm từ sau khi tế bào bất thường thứ nhất và được gọi là ung thư cổ tử cung thể xâm lấn.
Sự phân loại loạn sản tế bào cổ tử cung dựa vào xét nghiệm cổ tử cung (Pao tét), theo phân loại Bethesda được chia thành 3 loại: Tế bào vẩy thể không điển hình (ASCUS); Tổn thương tế bào biểu mô vẩy biệt hóa thấp (LGSIL); Tổn thương tế bào biểu mô vẩy biệt hóa cao (HGSIL).
– Đối với tế bào vẩy thể không điển hình khi làm xét nghiệm sàng lọc cổ tử cung bằng Pap tét phát hiện thấy những tế bào không điển hình nằm ở bề mặt của cổ tử cung.
– Đối với loại tổn thương nội mô tế bào vẩy biệt hóa thấp là loại loạn sản nhé, tế bào bất thường nằm ở 1/3 ngoài của lớp tế bào nội mô cổ tử cung (CIN I), loại loạn sản này bao gồm những thay đổi của tế bào do vi rút sinh u nhú ở người gây ra.
– Đối với loại tổn thương nội mô tế bào vẩy biệt hóa cao bao gồm loạn sản loại vừa (CIN II), tế bào bất thường đã chiếm 1/2 lớp tế bào biểu mô cổ tử cung. Loạn sản nặng (ung thư tại chỗ hoặc CIN III), trong đó toàn bộ bề dày của lớp tế bào biểu mô là tế bào bất thường, nhưng chúng chưa phá vỡ lớp đáy của lớp biểu mô.
Sự tổn thương của tế bào biểu mô vẩy được phân ra làm hai loại: loại biệt hóa thấp và cao. Loại biệt hóa cao và ung thư tại chỗ có thể tiến triển thành ung thư thể xâm lấn. 80-90% ung thư thể xâm lấn phát triển từ lớp tế bào đáy, tế bào vẩy của bề mặt cổ tử cung, chỉ xấp xỉ 10 – 15% trường hợp ung thư cổ tử cung phát triển từ lớp tế bào tuyến của cổ tử cung.
Theo Healthplus.vn
Chưa có bình luận